Về Chủ tịch hội đồng khoa học Viện Phát Triển Văn Hóa Dân Tộc
Trưởng thành từ một miền quê có truyền thống cách mạng của Thái Bình trong những năm tháng gian khổ của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại tá, PGS. TS KHQS Trần Nam Chuân – nguyên là Trung đoàn trưởng Trung đoàn ra đar phòng không 293, Nguyên Phó phòng Quản lý vùng trời Quân chủng Phòng không-Không quân; Chuyên viên cao cấp Viện Chiến lược Quốc phòng Bộ Quốc phòng; Giảng viên Khoa chiến thuật, chiến dịch Học viện Phòng không – Không quân; Người đã có những đóng góp trí lực cùng tâm sức cho nền Khoa học Quân sự và Chiến lược Quân sự, Chiến lược Quốc phòng của đất nước. Giờ đây, khi đã nghỉ hưu nhưng nhiệt huyết cống hiến vẫn chưa bao giờ dừng lại trong ông.

MÁI TRƯỜNG CẤP III NAM KIẾN XƯƠNG THÂN YÊU
Đại tá, PGS. TS KHQS Trần Nam Chuân sinh ngày 2/9/1950 tại xóm An Hòa, thôn An Phú, An Bồi, thị trấn Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Quê hương Thái Bình – vùng đất từ ngàn đời xưa đã có truyền thống yêu nước và đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Nơi đây đã nuôi dưỡng nhiều thế hệ anh hùng, hào kiệt lớn như Lý Nam Đế, Trần Thủ Độ, Hoàng Công Chất, Nguyễn Quang Bích, Đào Nguyên Phổ, Nguyễn Đức Cảnh… Ngay cả cụ thân sinh của Đại tá, PGS, TS. KHQS Trần Nam Chuân cũng đã từng tham gia kháng chiến, cụ là dân quân, du kích, cầm súng chiến đấu trực tiếp với kẻ thù khi thực dân Pháp quay trở lại chiếm đóng Thái Bình, Nam Định,… Sinh ra trên một mảnh đất hào hùng như vậy, lại được truyền lửa bởi những câu chuyện kể lý thú của ông bà, cha mẹ, cái tinh thần bất khuất cùng mong muốn được báo đáp Tổ quốc đã ươm mầm trong lòng ông ngay từ thủa bé.
Lớn lên trong một gia đình nông dân có 7 anh chị em, thời thơ ấu của Trần Nam Chuân cũng gian nan, vất vả như bao đứa trẻ ở nông thôn miền Bắc lúc đó. Hoàn cảnh nghèo khó nhưng cha mẹ vẫn cố gắng cho các con học chữ, học làm người. Để không phụ tấm lòng của bậc sinh thành, ngoài việc chăn trâu, cắt cỏ, làm đồng áng… trong suốt thời gian học cấp I, cấp II, cậu bé Trần Nam Chuân luôn chăm chỉ và phấn đấu học hành, nên Trần Nam Chuân luôn được thầy, cô giáo yêu mến, Chuân là một trong những học sinh giỏi tiêu biểu của lớp.
Thời gian học tại trường cấp III Nam Kiến Xương (nay là trường Trung học phổ thông Nguyễn Du) của Trần Nam Chuân cũng là lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đang ở vào giai đoạn quyết liệt nhất, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, trường sơ tán về thôn Mỹ Nguyên, xã Quang Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Cậu học sinh Trần Nam Chuân và bạn bè đều phải buổi sáng nắm cơm đi học, buổi chiều lao động (như tự xây nhà, đắp tường, làm hầm…), đi học đội mũ rơm, lớp học là các lán trại thô sơ, thỉnh thoảng máy bay ném bom bay qua gầm rú trên bầu trời thì thầy trò lại phải chui xuống hầm trú ẩn, cuộc sống thiếu thốn đủ bề…
ĐI QUA NHỮNG NĂM THÁNG CỦA CUỘC ĐỜI
Mùa xuân năm 1968, thực hiện lệnh Tổng động viên của Nhà nước, hòa chung với không khí sôi nổi của thanh niên cả nước tình nguyện nhập ngũ, Trần Nam Chuân và 50 người bạn cùng trang lứa đã lên đường trong ngày Hội tòng quân. Mỗi người một dáng vẻ, một suy nghĩ riêng nhưng tựu chung lại là ước mơ chung được ra mặt trận chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc thân yêu của mình.
Xuất thân từ một gia đình thành phần cơ bản với truyền thống cách mạng, lại có trình độ học vấn Trung học phổ thông cấp III nên chỉ sau 2 năm nhập ngũ vào quân đội Trần Nam Chuân đã vinh dự được cấp trên lựa chọn, bồi dưỡng để trở thành một cán bộ ưu tú của Quân đội nhân dân Việt Nam. Anh được cử đi học tiếp ở trường văn hóa quân đội và sau đó là đào tạo sĩ quan tại Trường Sĩ quan Chỉ huy kỹ thuật tên lửa ra đar (nay là Học viện Phòng không- Không quân) từ năm 1970 đến năm 1974. Tháng 12 năm 1972, khi đế quốc Mỹ leo nấc thang cao nhất mở cuộc tập kích đường không chiến lược mang tên Linebacker II sử dụng chủ yếu bằng máy bay B-52 vào đánh phá Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã ở miền Bắc, anh được cử về tăng cường và thực tập làm trắc thủ kiêm Đài trưởng tại Trạm ra đar 26 của Trung đoàn ra đar 293, Binh chủng ra đar, Quân chủng Phòng không-Không quân để tham gia chiến đấu trong trong Chiến dịch phòng không bảo vệ Thủ đô Hà Nội cuối tháng Chạp năm 1972.
Năm 1974, tốt nghiệp ra trường với thành tích xuất sắc, Trần Nam Chuân được giữ lại làm giảng viên của Khoa ra đar, Trường Sĩ quan Chỉ huy kỹ thuật tên lửa ra đar. Với một nhiệt tình cao độ của tuổi trẻ, anh tập trung tất cả vào công việc nhằm đào tạo ra những lớp sĩ quan Phòng không – Không quân có kiến thức sâu, rộng, chuyên môn nghề nghiệp giỏi, có kỷ luật nghiêm khắc, phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của nhân dân Việt Nam. Phẩm chất đó đã được ghi nhận và đánh giá cao nên năm 1976, anh lại được cấp trên cử đi học ở trường văn hóa quân đội để đào tạo về ngoại ngữ, chuẩn bị đi du học tại nước ngoài.
Đầu năm 1977, Trần Nam Chuân đến Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô -Viết – “siêu cường” có sức mạnh quân sự hàng đầu thế giới. Tại Học viện chỉ huy quân sự phòng không quốc gia mang tên Nguyên soái anh hung Liên Xô – Giu Cốp, anh đã được đào tạo bài bản với những kiến thức chuyên sâu, tiên tiến về tên lửa, ra đar, pháo phòng không, không quân,… nói riêng và chuyên ngành khoa học quân sự nói chung. Năm 1981, ngay sau khi tốt nghiệp Học viện Chỉ huy Quân sự Phòng không quốc gia Liên Xô, anh về nước với mong muốn cực kỳ mãnh liệt là tiếp tục được phục vụ Tổ quốc.
Khi về nước, Trần Nam Chuân được phân công về công tác tại một Trạm ra đar 13 trên đỉnh núi Khau Làng gần biên giới Việt –Trung thuộc Trung đoàn ra đar 293, Binh chủng ra đar, Quân chủng Phòng không. Là một cán bộ trẻ, được đào tạo chuyên môn cơ bản tại nước ngoài, năng động, nhiệt huyết nên ông đã được cấp trên tin tưởng giao nhiều cương vị quan trọng: Trạm trưởng Trạm ra đar 13 rồi Trung đoàn phó, Trung đoàn phó TMT và sau đó là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 293. Đến cuối năm 1990, ông được điều chuyển lên làm Phó phòng Quản lý vùng trời của Quân chủng Phòng không – Không quân.
Từ năm 1993, Trần Nam Chuân được trên cử về làm giảng viên tại khoa Chiến dịch, chiến thuật của Học viện Phòng không – Không quân. Năm 1995, ông Bộ Quốc phòng điều về làm cán bộ nghiên cứu tại Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam. Năm 1997, ông lại được trên tuyển chọn đi đào tạo cao học (thạc sĩ Khoa học quân sự) tại Học viện Quốc phòng. Đến năm 2000 ông bảo vệ thành công Luận văn Thạc sĩ Khoa học Quân sự và đạt loại xuất sắc của Học viện Quốc phòng. Nhờ thành tích xuất sắc, ông được chuyển thẳng làm nghiên cứu sinh và ông bảo vệ Luận án Tiến sĩ Khoa học Quân sự vào đầu năm 2003 đạt loại giỏi. Sau đó, ông được điều về làm cán bộ nghiên cứu của Viện Chiến lược Quân sự (nay là Viện Chiến lược Quốc phòng), Bộ Quốc phòng. Năm 2009, TS Trần Nam Chuân được Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước phong học hàm Phó Giáo sư.
Năm 2013, Đại tá, PGS. TS KHQS Trần Nam Chuân được về nghỉ chế độ hưu trí. Tuy nhiên, nhờ uy tín trong giới khoa học, ông được Thượng tướng, Tiến sĩ, Viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học Nghệ thuật quân sự Liên Bang Nga – Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Quân ủy Trung ương, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân mời về công tác tại Văn phòng Viện sĩ với cương vị trợ lý cho Thượng tướng Viện sĩ, Tiến sĩ Nguyễn Huy Hiệu.
NHÀ KHOA HỌC QUÂN SỰ XUẤT SẮC
Hoạt động khoa học của Đại tá, PGS. TS KHQS Trần Nam Chuân bắt nguồn ngay từ những năm đầu trong quân ngũ. Từ khi ông là trắc thủ trên các đài ra đar trực ban sẵn sàng chiến đấu, ông đã kiên trì học tập, rèn luyện, nỗ lực phấn đấu trong luyện tập, thử nghiệm và rút ra những bài học kinh nghiệm quí về phát hiện các mục tiêu bay thấp, các mục tiêu trong các dải nhiễu cường độ cao, qua đó ông đã có nhiều kinh nghiệm trong thao tác, phát hiện các loại mục tiêu bay trên không, đặc biệt là máy bay chiến lược B-52 trong “nhiễu”. Đại tá, PGS. TS KHQS Trần Nam Chuân khi còn học ở trường cũng đã được nghiên cứu các phương án chiến đấu và quy trình thao tác, phát hiện mục tiêu trên các đài ra đar. Nhờ đó, đến lúc trở thành trắc thủ kiêm Đài trưởng Trạm ra đar 26, Trung đoàn ra đar 293, Binh chủng ra đar trong trận quyết chiến chiến lược “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” cuối tháng 12 năm 1972, ông và đồng đội cùng các đơn vị bạn đã chủ động phát hiện, thông báo chính xác các tốp máy bay B-52, tạo điều kiện để bộ đội tên lửa phòng không và không quân ta chiến đấu giành thắng lợi.
Kinh nghiệm thực tế này cho ông thấy bất kỳ một loại vũ khí, phương tiện chiến tranh nào dù hiện đại đến đâu cũng còn mặt hạn chế nhất định và nếu biết nắm bắt kịp thời sự phát triển của khoa học kỹ thuật quân sự thì sẽ tìm ra được những biện pháp đối phó có hiệu quả ngay cả khi điều kiện trang bị của ta còn thiếu thốn. Vì vậy, cần phát triển mạnh khoa học kỹ thuật quân sự ở trình độ cao hơn để đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tương lai.
Bởi thế, Đại tá, PGS, TS KHQS Trần Nam Chuân đã thực hiện nhiều định hướng nghiên cứu mới với những công trình và đề tài cấp Viện và cấp Bộ Quốc phòng có giá trị như: “Tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng ra đar trinh sát phòng không bảo đảm chỉ huy, quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng trời, vùng biển đảo Tổ quốc (1998-2000)”; “Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới (2006)”; Vận động đồng bào tôn giáo tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trên địa bàn các tỉnh biên giới (2007); “Tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới”; và “Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại (2009)”, “Hợp tác quốc phòng- an ninh bảo vệ chủ quyền biển đảo (2010)…”
Đại tá, PGS. TS Trần Nam Chuân đã viết hàng chục bài báo khoa học đăng trên các tạp chí: Tạp chí Cộng sản, Tạp chí lý luận chính trị, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Tạp chí Nghệ thuật Quân sự Việt Nam, Tạp chí Lịch sử quân sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học Quân sự, Tạp chí Khoa học và chiến lược Bộ Công an, Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí Quản lý Nhà nước,…. Trong đó, có những bài viết tiêu biểu như: “Tư duy mới Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới”; “Tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng ra đar thời kỳ đầu chiến tranh bảo vệ Tổ quốc”; “Nhiễu” và nghệ thuật phát hiện B-52 trong “nhiễu” của bộ đội ra đar trong Chiến dịch phòng không tháng 12/1972; “Tìm hiểu quan điểm đối ngoại quốc phòng, an ninh theo tinh thần Nghị quyết qua các kỳ Đại hội của Đảng”; “Hợp tác quốc phòng- an ninh bảo vệ chủ quyền biển đảo”; “Đoàn kết Việt – Lào theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kaysone Phonvihane”…
Ông còn là tác giả, đồng tác giả hoặc chủ biên của nhiều đầu sách được xuất bản bởi Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (2008); “Tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng ra đar trinh sát phòng không bảo đảm chỉ huy, quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng trời, vùng biển đảo Tổ quốc (1998-2000)”; “Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới (2006)”; “Tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới”,…và một số công trình khoa học viết chung. Ông còn tham gia vào nhiều công trình khoa học cấp Nhà nước, và được mời dự nhiều cuộc Hội thảo khoa học quốc tế và trong nước; bởi thế ông được Bộ Khoa học và công nghệ nước ta tặng Huân chương: Vì sự nghiệp Khoa học.
Những thành công trên con đường sự nghiệp của Đại tá, PGS. TS KHQS Trần Nam Chuân không thể không nhắc tới vai trò của người vợ ông là bà Trần Thị Phúc-một Đảng viên Cộng sản luôn cần cù, chịu khó, đứng phía sau cổ vũ, động viên ông. Ông bà còn có 2 con gái, con gái đầu tốt nghiệp trường Đại học Văn hóa Hà Nội hiện đang công tác tại một trường tiểu học điểm của Hà Nội, con gái thứ hai là Thạc sĩ Kinh tế hiện nay đang làm việc ở một doanh nghiệp tại Hà Nội.
Với khát vọng và mong muốn nghiên cứu được nhiều công trình khoa học có giá trị thực tiễn hơn nữa để phát triển nền khoa học quân sự đất nước, Đại tá, PGS. TS KHQS Trần Nam Chuân hầu như chưa lúc nào ngừng học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo. Dẫu biết rằng trên con đường đã chọn gặp muôn vàn khó khăn, thử thách, có những lúc tưởng chừng như không thể vượt qua và dù đã nghỉ hưu nhưng không vì thế ông nhụt ý chí, mà lại càng quyết tâm cao hơn để hoàn thành những ý tưởng mình đang theo đuổi, nghiên cứu. Bởi với ông, những gì đã và đang làm thực sự cần thiết cho giáo dục-đào tạo, cho Quân đội nhân dân Việt Nam và cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.











