Phát huy giá trị các di sản lịch sử, văn hóa gắn với phát triển du lịch tại Bắc Kạn
Bắc Kạn là tỉnh miền núi, vùng cao có nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh nổi tiếng, cùng với bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo của các dân tộc nơi đây đã tạo nên những di sản lịch sử, văn hóa giá trị góp phần vào việc xây dựng và phát triển quê hương Bắc Kạn qua bao đời nay.
Di sản lịch sử, văn hóa của Bắc Kạn rất phong phú và đa dạng, hiện có 158 di tích, trong đó có 06 di tích được xếp hạng cấp quốc gia (trong đó có 02 di tích cấp quốc gia đặc biệt là hồ Ba Bể và Khu ATK Chợ Đồn) và 36 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Di tích lịch sử nổi bật là Khu ATK Chợ Đồn gồm các di tích tiêu biểu như: Bản Ca, Nà Pậu, Nà Quân, Khuổi Linh, Khau Mạ; Khu di tích Nà Tu – Cẩm Giàng, Đồn Phủ Thông, Địa điểm Chiến thắng Đèo Giàng… Danh lam thắng cảnh: Vườn quốc gia Ba Bể với các danh thắng như: hồ Ba Bể, Ao Tiên, thác Đầu Đẳng, Động Puông, Động Hua Mạ, hang Thẳm Phầy, bản Pác Ngòi nằm trên bờ hồ…Động Nàng tiên, Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ (Na Rỳ); Đỉnh Phya Khao (Chợ Đồn); Hồ Bản Trang và thác Nà Khoang (Ngân Sơn); thác Bạc, thác Rọom (thành phố Bắc Kạn). Hệ thống Đền, Chùa gồm: Đền Thắm, Chùa Thạch Long (huyện Chợ Mới); Đền Thác Giềng, Đền Cô, Đền Mẫu (thành phố Bắc Kạn)…
Về Lễ hội tiêu biểu, thu hút được đông đảo du khách và người dân tham gia gồm: Lễ hội Lồng tồng xã Hà Vị, Lễ hội Phủ Thông, huyện Bạch Thông; Lễ hội Bằng Vân, huyện Ngân Sơn; Lễ hội Mù Là, xã Cổ Linh, huyện Pác Nặm; Lễ hội Lồng tồng xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể; Hội xuân thành phố Bắc Kạn và Hội chợ Văn hóa Truyền thống Xuân Dương Na Rì (mỗi năm họp một lần vào ngày 25/3 âm lịch).
Phong tục, tập quán, nghệ thuật trình diễn và âm nhạc: Người Tày có Lượn Cọi, Phong Slư, hát Quan làng (hát đám cưới), hát then, hát pụt; có múa bát, múa quạt, múa đàn tính; Người Nùng có hát Sli, lượn Nàng ới, hát then, múa Xiêng tâng; Người Dao có hát Páo dung, múa chuông, múa bắt Ba Ba, thổi khèn Pí lè, có Lễ cấp sắc…Người Mông có múa Khèn, thổi sáo mèo, lễ hội gầu tào…Ngoài ra, đồng bào các dân tộc thiểu số Bắc Kạn còn có các phong tục tập quán, nếp sống truyền thống, lễ nghi, tiếng nói, chữ viết, tri thức dân gian, trang phục, kiến trúc nhà ở, làng nghề thủ công…rất phong phú, độc đáo và đa dạng.

Lễ hội Lồng tồng Ba Bể.
Đây là những di sản có giá trị lớn, là tiềm năng chủ yếu trong việc phát huy giá trị phục vụ phát triển du lịch, nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống yêu nước; để phát triển du lịch một cách bền vững trên nền giá trị các di sản lịch sử, văn hóa, thì trước hết công tác bảo tồn, tu bổ, tôn tạo các di sản văn hóa phải được quan tâm hàng đầu. Chính vì vậy, trong những năm qua ngành du lịch Bắc Kạn đã phối hợp các cơ quan chức năng, các địa phương, các cơ quan liên quan, các nhân chứng lịch sử lập hồ sơ khoa học trình cấp có thẩm quyền xếp hạng 13 di tích quốc gia, 36 di tích cấp tỉnh; tu bổ, tôn tạo 3/6 di tích thuộc dự án “Phục hồi, tu bổ, tôn tạo các di tịch lịch sử ATK tại Bắc Kạn”, xây dựng bia di tích Đèo Giàng, Dự án di tích Nà Tu; trùng tu di tích Coỏng Tát, nhà Hội đồng Pháp, các di tích chùa Phố Cũ, Đền Tiên Sơn, Phiêng Chì, Đền Mẫu, Đền Cô, Chùa Thạch Long…Thành lập 26 Ban Quản lý di tích, 28/36 di tích có người trông coi…
Các làng nghề đã dần được khôi phục, các Câu lạc bộ hát Then, Đàn Tính phát triển, lễ hội truyền thống được phục dựng, đặc biệt, Hội xuân Ba Bể được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia (Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ký quyết định số 4205/QĐ-BVHTTDL ngày 19/12/2014)…Cùng với việc bảo tồn, tôn tạo, phục dựng di sản văn hóa đã góp phần tạo ra những loại hình sản phẩm du lịch mới, hấp dẫn hơn, chân thực hơn, như du lịch nghiên cứu tìm hiểu bản sắc văn hóa các dân tộc (Tày – Nùng, Mông, Dao); du lịch tâm linh (Đền Thắm – Chùa Thạch Long – Đền Mẫu, Đền Cô); du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng (hồ Ba Bể), trải nghiệm dịch vụ Homestay (các bản nhà sàn Pác Ngòi, Bò Lù – Ba Bể); du lịch lễ hội (Hội xuân Ba Bể, Hội Mù Là – Pác Nặm…); Hội chợ văn hóa truyền thống Xuân Dương; Nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ và Khu Bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc…
Kiến trúc nhà ở truyền thống được gìn giữ; những bộ trang phục được làm thủ công đang được cộng đồng các dân tộc khôi phục, lưu truyền; phong tục, tập quán, nghi lễ, lễ hội, âm nhạc, dân ca dân vũ, nghệ thuật tạo hình… được gìn giữ, phát huy. Công tác tuyên truyền, quảng bá luôn được đẩy mạnh (Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin, tổ chức các hội nghị xúc tiến, tổ chức các sự kiện, tổ chức khảo sát xây dựng tuor, tuyến…); công tác Quy hoạch được quan tâm (UBND tỉnh đã phê duyệt các QH về khu, điểm du lịch, QH xây dựng…); các doanh nghiệp Lữ hành trong và ngoài tỉnh đã biết đến Bắc Kạn và chủ động liên kết xây dựng các tuor, tuyến; hạ tầng du lịch phát triển, như đường xá được nâng cấp, cải tạo (đường nối Ba Bể – Na Hang, Quốc lộ 3 Mới, đường vào khu du lịch Thác Bạc, QL 279…), thu hút các nhà đầu tư xây dựng nhà hàng khách sạn (Resort Ba Bể, Trung tâm đón tiếp Buốc Lốm và khu Resort Sài Gòn – Ba Bể đang xây dựng…); đến thời điểm này Bắc Kạn có 199 cơ sở lưu trú với 1.734 phòng (22 khách sạn, 177 nhà nghỉ); doanh thu từ du lịch năm 2016 là 280 tỷ đồng với trên 400.000 lượt khách.
Tuy nhiên, việc Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa các dân tộc Bắc Kạn gắn với phát triển du lịch trong thời gian qua còn tồn tại một số hạn chế sau: Vốn đầu tư hạn chế, nên việc bảo tồn, tu bổ các di sản lịch sử, văn hóa thiếu sự đầu tư đồng bộ, từ tu bổ kiến trúc, nội thất tới tôn tạo cảnh quan sân vườn, lắp đặt hệ thống chiếu sáng, phòng chống cháy, cải tạo hệ thống đường đi lối lại trong và xung quanh di tích, xây dựng các khu quản lý và dịch vụ… Cơ sở hạ tầng tại các di tích còn yếu, hệ thống giao thông đến di tích không phải đã hoàn toàn thuận lợi, thậm chí với nhiều di tích còn rất khó khăn trong việc tiếp cận (Khu ATK Chợ Đồn, một số điểm đến…),
Các điểm du lịch của Bắc Kạn chưa khai thác được các giá trị di sản văn hóa dân tộc để tạo ra sản phẩm phục vụ khách du lịch; thiếu sự gắn kết các tuor, như du lịch tâm linh gắn với di tích lịch sử; du lịch gắn với lễ hội dân gian truyền thống; du lịch đến với các làng nghề thủ công truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số; phương tiện vận chuyển khách còn nhiều bất cập…
Hoạt động của du lịch Bắc Kạn chưa đáp ứng được việc góp phần vào bảo tồn, phát huy và quảng bá các giá trị di sản văn hóa dân tộc của Bắc Kạn với du khách trong và ngoài nước; chưa tạo ra được nhiều công ăn, việc làm cho người dân tộc thiểu số, đặc biệt là các nghệ nhân, diễn viên, người am hiểu về văn hóa dân gian (vì họ là những người đang ngày đêm bảo tồn và lưu giữ các di sản văn hóa dân tộc).
Thời gian vừa qua để công tác “Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc Bắc Kạn gắn với phát triển du lịch” được triển khai có hiệu quả và phát triển bền vững, Bắc Kạn đã xây dựng Quy hoạch bảo tồn, tôn tạo các di sản lịch sử, văn hóa nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị vốn có để khai thác, phát triển du lịch (một số nét bản sắc văn hoá truyền thống của các dân tộc như: trang phục, nếp sống văn hoá – văn nghệ dân gian, phong tục tập quán…, đang bị pha tạp và dần mai một; nhiều làn điệu dân ca, điệu múa cổ truyền, nhạc cụ dân tộc, lễ hội dân gian, một số nghề thủ công truyền thống và phương tiện sinh hoạt hàng ngày bị thất truyền).
Đẩy mạnh công tác quản lý giám sát (phân cấp cụ thể, tránh chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ); bổ sung và nâng cao chất lượng các dịch vụ phục vụ du khách tại các điểm đến, như: Dịch vụ bán đồ lưu niệm, bán hàng giải khát, dịch vụ bán vé tham quan, thuyết minh tại chỗ; quản lý bến xuồng và xuồng chở khách; dịch vụ vui chơi giải trí…
Xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng phù hợp với thực tế tương xứng với tiềm năng và thế mạnh hiện có của tỉnh; chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch lịch sử, văn hoá…
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng cán bộ quản lý, đội ngũ nhân viên phục vụ du lịch, thuyết minh hướng dẫn viên tại các điểm du lịch về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, cách giao tiếp ứng xử…
Thực hiện có hiệu quả công tác quảng bá, tuyên truyền, giáo dục phối hợp với các cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình, các doanh nghiệp Lữ hành… nhằm tuyên truyền, quảng bá các giá trị của di sản lịch sử, văn hoá.
Nâng cao nhận thức và vai trò của cộng đồng dân cư trong công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản lịch sử, văn hóa (vì cộng đồng chính là linh hồn, là tâm điểm của di sản, phát triển du lịch di sản không thể tách rời phát triển cộng đồng ở khu vực di sản).
Nguồn: Sở VHTT&DL Bắc Kạn











